Hướng về biển đảo quê hương

Kể chuyện xây “loa thành” Trường Sa

Thứ Sáu 0:00 29/04/2016
ĐBP - Ngày 29/4 này, tròn 41 năm Trường Sa giải phóng, song không phải ai cũng tường tận trước đây ở “quần đảo bão tố” ấy, những người công binh Hải quân, đã gác lại tuổi thanh xuân của mình đi Trường Sa xây đảo. Giữa đại dương bao la, họ dầm mình trong mưa rào, nắng lửa và đối mặt với bao gian khổ, thiếu thốn, nhiều chiến sĩ đã bỏ mạng giữa ngàn khơi. Để rồi sau nhiều tháng ngày chạy đua với sóng gió, những “loa thành” mang dáng hình Tổ quốc đầu tiên mang tên Trường Sa mọc giữa biển Đông.

Chiều cuối tuần một ngày cuối tháng tư, chúng tôi đến thăm cựu binh Trần Quốc Thống ở phường 11, TP. Vũng Tàu. 41 năm trước, ông Thống lúc đó đeo quân hàm Trung tá, chỉ huy Trung đoàn 131 công binh Hải quân vượt sóng ra Trường Sa dựng nhà xây đảo. “Sau giải phóng Trường Sa năm 1975, nhiệm vụ xây dựng đảo Trường Sa được đặt lên hàng đầu trong chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Do vậy, đưa lực lượng ra xây đảo được coi là nhiệm vụ cấp thiết lúc đó”, ông Thống nhớ lại. Việc xây dựng phải bảo đảm 2 yếu tố: Phải là nơi phòng thủ kiên cố có tầm quan sát rộng, tiện cho cơ động sẵn sàng chiến đấu và tránh nắng nóng; vừa tránh được ẩm thấp nước biển mặn, đón được hướng gió, bảo đảm mọi sinh hoạt công tác, huấn luyện, vui chơi của bộ đội. Kế hoạch từ khâu vận chuyển đá, thép, vật liệu từ đất liền ra đảo được bàn thảo khẩn trương và khoa học. Hàng ngàn khối đá, xi măng, sắt thép và vật liệu xây dựng được chuyển xuống tàu, vượt sóng gió ra Trường Sa.

Trường Sa lớn ngày đầu giải phóng.

Sau gần 4 ngày lênh đênh trên biển đã đến đảo Trường Sa lớn. Phần đa cán bộ chiến sĩ bị say sóng, nhiều chiến sĩ trẻ bỏ bữa. Hầu hết các chiến sĩ chưa biết Trường Sa là gì, chỉ hình dung trong đầu, đó là một hòn đảo xa xôi và thiêng liêng. “Ngày đó chưa có tàu hiện đại như bây giờ. Tất cả áo phao, phương tiện bảo đảm trên tàu cũng rất thô sơ. Đất nước mới giải phóng, đau thương chồng chất, đi Trường Sa lúc đó khác gì sinh tử. Nhưng vì nhiệm vụ, vì Trường Sa chúng tôi lên đường không hề do dự”, ông Thống nhớ lại.

Trường Sa lớn ngày đầu giải phóng toàn là đất đá và thuốc súng. Ban ngày nhiệt độ nóng đến 38oC, cộng với gió Tây Nam thổi mạnh, hơi nước mặn từ biển bốc lên, càng làm cho khí hậu thêm khắc nghiệt. Bài toán vô cùng khó khăn đặt ra là làm sao để có nước ngọt, trong khi lượng nước ngọt dự trữ trong can nhựa vơi dần. Thời điểm đó, ngoài Trường Sa Lớn và Song Tử Tây không có đảo nào có nước ngọt. Hai đảo này có bể chứa nước của lính Việt Nam Cộng hòa để lại, mỗi bể chừng 6 khối, nhưng cũng không dùng được vì nhiễm thuốc súng, phân và lông chim. Chỉ còn cách là tiết kiệm tối đa cho đến khi có nguồn nước viện trợ từ đất liền. Kế hoạch tiết kiệm là mỗi người 1 lít/ngày. Chiều chiều các chiến sĩ lội xuống biển tắm, người nọ kỳ lưng cho người kia, tắm xong anh em lên dội lại nước lợ từ giếng. Do tắm nước biển lâu ngày, nên da người nào cũng xù xì như lớp sừng bám, tất cả cán bộ chiến sĩ người nào cũng đen cháy, khi cười chỉ nhìn thấy răng và mắt. Việc ăn uống vô cùng khổ sở. Có bữa ăn, cả đại đội chỉ vẻn vẹn 4 hộp thịt của Liên Xô, đổ thêm nước rồi nấu sôi, chan cơm. Anh em thèm một bữa rau xanh cháy cổ nhưng lấy đâu ra giữa Trường Sa chỉ có nắng gió, cát và sỏi đá ấy. Khó khăn thì không thể nói hết được, nhưng điều quan trọng là cán bộ chiến sĩ luôn vững vàng, yên tâm tư tưởng và quyết tâm xây đảo”. Dưới cái nắng như thiêu như đốt, các chiến sĩ ngày vận chuyển vật liệu, đêm lại đóng cọc dựng nhà che bạt ở tạm, cốt để bộ đội có chỗ ăn cơm và ngủ lấy lại sức. Cuối tháng 5/1976, ngôi nhà đầu tiên trên đảo Trường Sa lớn hoàn thành.

Đoàn quân tiến bước dưới quân kỳ.

Có lẽ ông Thống không bao giờ quên được giây phút ông và đồng đội ôm nhau khóc giữa biển khơi. Đó là ngày khánh thành ngôi nhà đầu tiên trên đảo Trường Sa lớn. “Nhìn ngôi nhà sừng sững giữa đại dương, chúng tôi bật khóc. Khóc vì sung sướng. Khóc vì nghĩ lại những ngày chạy đua với sóng gió quá khổ. Chúng tôi ôm nhau reo hò và hy vọng một ngày nào đó về lại đất liền thăm gia đình”, ông Thống nhớ lại.

Sau giải phóng Trường Sa với 33 đảo, điểm đảo/21 điểm đóng quân trở thành một quần đảo có đầy đủ lịch sử và pháp lý của một đất nước có chủ quyền. Mỗi đảo nhỏ là một pháo đài canh chủ quyền đất nước, chủ nhân của những pháo đài ấy là quân dân huyện đảo Trường Sa tỉnh Khánh Hòa. Nếu 41 năm trước, Trường Sa là khô cằn sỏi đá, đời sống quân dân huyện đảo gặp nhiều khó khăn, thì nay Trường Sa là thị tứ sầm uất giữa biển khơi, đời sống của quân dân ngày một thay da đổi thịt. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước từ năm 2009, Trường Sa đã khoác lên mình màu áo mới. 100% các đảo nổi, đảo chìm có điện thắp sáng bằng pin năng lượng mặt trời, phủ sóng Đài truyền hình Việt Nam và điện thoại di động không dây. Ngoài nhiệm vụ canh chủ quyền Tổ quốc, mỗi đảo còn là điểm tựa cho ngư dân từ đất liền ra đánh bắt thủy hải sản trên vùng biển này. Hàng năm có hơn 20 đoàn công tác, khách, người thân của cán bộ chiến sĩ từ đất liền ra thăm đảo. Sau cuộc hành trình “ba cùng” ngắn ngủi với lính đảo, họ trở về đất liền trong niềm cảm phục và cũng tự hào về Trường Sa và những người lính kiên trung nơi  “chân trời” Tổ quốc.