Chính trịXây dựng Đảng

Góp ý dự thảo văn kiện Đại hội Đảng XIII

Cần tính toán kỹ các mục tiêu phát triển

08:32 - Thứ Ba, 27/10/2020 Lượt xem: 3207 In bài viết

Dự thảo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trình Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu: Đến năm 2030, là nước đang phát triển có thu nhập trung bình cao, có thể chế quản lý hiện đại, cạnh tranh, hiệu lực, hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Như vậy, dự thảo đã xác định hai mốc quan trọng:  Năm 2030, nhân 100 năm thành lập Đảng và năm 2045, nhân 100 năm thành lập nước. Trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương 10, Khóa XII, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu các tiểu ban soạn thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng phải có tầm nhìn dài hạn, phải dự báo và đưa ra các mục tiêu phát triển cho chặng đường dài hơi.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước chỉ rõ: “Nói Đại hội XIII không phải chỉ cho đến năm 2026 (giai đoạn 2021 - 2026) mà phải có tầm nhìn chiến lược dài hơn, nhìn lại cả quá khứ và hướng tới tương lai. Bộ Chính trị đã cho định hướng mốc là đến năm 2026 là mốc kết thúc nhiệm kỳ Đại hội XIII, đến năm 2030 là mốc 100 năm thành lập Đảng và đến năm 2045 là mốc 100 năm thành lập nước.

Vậy chúng ta định hướng, hình dung ra nước ta vào năm 2030 sẽ là thế nào? Đến năm 2045, nước ta sẽ như thế nào? Đây là những vấn đề rất lớn, vô cùng khó. “Vừa qua họp Bộ Chính trị, họp lãnh đạo chủ chốt, tôi đã nói: Tất cả các địa phương phải theo cách này, không phải chỉ tập trung lo chuẩn bị nhân sự mà phải tập trung xây dựng văn kiện đại hội. Báo cáo trình ra đại hội không giống như báo cáo thành tích hằng năm, mà cũng phải phân tích quá trình của địa phương, đơn vị mình hiện tại và sắp tới hình dung xem địa phương ta đến năm 2030 sẽ ra sao, đến năm 2045 sẽ là như thế nào. Đây là việc khó lắm, không dễ, cho nên các đồng chí phải nghiên cứu, chuẩn bị hết sức công phu...” – Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nêu rõ.

Như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã nói “đây là việc khó lắm, không dễ”, đòi hỏi phải có tổng kết kỹ lưỡng và các dự báo, tầm nhìn trung và dài hạn phải thực sự nhạy bén, khoa học mới có thể đặt ra mục tiêu phát triển năm 2030, 2045. Bởi lẽ, lâu nay các kỳ đại hội, chúng ta thường chỉ đặt mục tiêu tầm trung (5 năm) mà dự báo nhiều khi còn chệch, mục tiêu phát triển không đạt.

Thực tế, kể từ sau đổi mới, chúng ta cũng từng đặt ra một mục tiêu phát triển với tầm nhìn trên 20 năm. Quan điểm của Đảng về xây dựng nước công nghiệp lần đầu tiên xuất hiện trong Văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996).Đó là thời điểm rất đặc biệt: Đất nước trải qua 10 năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới và đạt kết quả có tính bước ngoặt: thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế và tiến vào giai đoạn mới, giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Đại hội VIII của Đảng đặt ra lộ trình “từ nay (1996) tới năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại”.

Mô hình nước công nghiệp được vạch ra là: Lực lượng sản xuất lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hóa cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay. Ở thời điểm năm 1996, nếu nói về mốc năm 2020 “trở thành nước công nghiệp”, ta thường có cảm giác còn xa. Bởi thế, đặt mục tiêu nước công nghiệp năm 2020 thì thực tế, trong quan điểm các nhà soạn thảo văn kiện ngày đó cũng chỉ áng lượng một cách chung nhất chứ chưa thể định hình nội hàm, mục tiêu cụ thể của “nước công nghiệp” có hình dáng, quy mô ra làm sao.

Nhìn lại chặng đường kể từ sau Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, CNH, HĐH vẫn là mục tiêu, động lực xuyên suốt, tuy nhiên nhiều vấn đề về điểm hẹn trở thành nước công nghiệp được nhìn nhận lại. Từ năm 1996 tới trước Đại hội XII, qua 4 kì đại hội Đảng, mục tiêu phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại là chiến lược xuyên suốt, nhất quán. Tuy nhiên, trong các văn kiện đại hội cũng như các đề án, kế hoạch, chúng ta chỉ xác định những vấn đề chung, tổng quát chứ chưa đưa ra các tiêu chí cụ thể và có khái niệm rõ ràng về nước công nghiệp.

Thế nhưng, đến 2016 thì mục tiêu đã có sự “cải chính”. Văn kiện trình Đại hội XII của Đảng đã xác định mục tiêu tổng quát 5 năm (2016-2021) về kinh tế là “đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.

Như vậy, sau 20 năm, mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại được điều chỉnh về mặt thời gian, không còn xác định cán đích vào năm 2020. Cụm từ “sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” đã được điều chỉnh linh hoạt hơn, không ấn định cụ thể thời gian.

Điểm lại tiến trình như vậy để thấy, mục tiêu “nước công nghiệp” đặt ra 24 năm trước đã lỗi hẹn, vậy hướng tới mốc 24 năm sau kể từ Đại hội XIII, chúng ta sẽ đặt ra mục tiêu làm sao để vừa thể hiện khát vọng hướng tới nhưng phải có tính khả thi. Hiện, dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII đã không còn dùng khái niệm “nước công nghiệp” để xác định đích đến cho kế hoạch phát triển đất nước. Thay vào đó là khái niệm “là nước đang phát triển có thu nhập trung bình cao” vào năm 2030.

Ở đây, cần làm rõ hơn mục tiêu “nước đang phát triển có thu nhập trung bình cao” với “nước công nghiệp” để xác định tương đồng và khác biệt như thế nào. Bởi lâu nay chúng ta đưa vào các văn kiện chỉ đặt ra mục tiêu nước công nghiệp, nay với nội hàm mới có thể gây ra những cách hiểu khác nhau. Do đó, đề nghị văn kiện cần thống nhất tên gọi trong xác định mục tiêu và có giải thích rõ hơn để nhân dân nắm được, tránh sự nhầm lẫn trong các khái niệm, mục tiêu đặt ra. 

Điểm nữa, việc đặt ra chỉ tiêu cần tính toán tính khả thi và các yếu tố tác động. Dự thảo đề ra mục tiêu đến năm 2030, GDP bình quân đầu người đạt 7.500 USD/người. Mục tiêu này gấp 3 lần hiện tại và chỉ trong 10 năm. Nếu đạt được sẽ là bước ngoặt mới về thu nhập bình quân đầu người. Tuy nhiên, nhiều ý kiến băn khoăn về tính khả thi, liệu chỉ trong 10 năm tới, chúng ta có thể đạt được con số đó? Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế thế giới có nhiều biến động khó lường, khó dự báo.

5 năm trước, chúng ta không thể lường trước sự tác động tiêu cực của đại dịch COVID 19 khiến kinh tế thế giới đình trệ. Do đó, trong chặng đường phát triển tiếp theo, nếu có những diễn biến tương tự như vậy sẽ khiến kinh tế suy giảm mạnh, ảnh hưởng lớn đến mục tiêu, lộ trình phát triển đặt ra.

Nguyễn Thành

(Theo CAND)
Bình luận
Back To Top