Xã hộiBiển đảo Việt Nam

Củng cố hệ thống chính sách pháp luật để bảo vệ chủ quyền biển đảo

09:00 - Thứ Năm, 29/10/2020 Lượt xem: 20674 In bài viết

ĐBP - Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc. Do hoàn cảnh chiến tranh, Việt Nam chỉ thực sự có điều kiện ban hành quy định pháp lý về biển kể từ năm 1977 với Tuyên bố về lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Từ đó đến nay, Nhà nước Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến biển, đảo, làm tiền đề củng cố an ninh và thực hiện các chiến lược biển của đất nước.

Bãi biển Quy Nhơn cát vàng nước biển trong xanh.

Việc Quốc hội khóa XIII thông qua Luật Biển Việt Nam vào năm 2012 đã đánh dấu mốc quan trọng: Nước ta có một văn bản luật quy định đầy đủ chế độ pháp lý các vùng biển, đảo thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam theo đúng Công ước Luật Biển. Theo Bộ Ngoại giao, cùng với việc khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp biển, đảo bằng biện pháp hòa bình, Việt Nam đã chuyển một thông điệp quan trọng tới thế giới: Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật Biển năm 1982; thể hiện quyết tâm của Nhà nước Việt Nam phấn đấu vì hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển của khu vực và trên thế giới.

Lập trường này được thể hiện trong tất cả các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến biển, hải đảo cũng như các tuyên bố chính thức khác của Việt Nam sau này, đặc biệt là quá trình đàm phán để từng bước giải quyết, ký kết các hiệp định phân định ranh giới vùng biển chồng lấn với một số nước láng giềng như: Thái Lan, Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a.

Trong đó, đáng chú ý là Luật Dầu khí sửa đổi năm 2008; Luật Bảo vệ môi trường 2014; Luật Biên giới quốc gia 2003; Luật Thủy sản 2017; Bộ Luật Hàng hải Việt Nam 2015; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo 2015; Luật Quy hoạch 2017; Luật Cảnh sát biển Việt Nam 2018. Các luật, bộ luật và hệ thống nghị định, quy định, quy chế liên quan đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng để Việt Nam thực hiện quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo của mình.

Thế kỷ 21 là “Thế kỷ của đại dương” và thập kỷ 2021 - 2030 được chọn là “Thập kỷ của Liên hợp quốc về khoa học biển vì sự phát triển bền vững”. Là một quốc gia ven biển, Việt Nam có nhiều cơ hội thuận lợi để phát triển, đồng thời cũng đứng trước những thách thức trong công cuộc bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển, an ninh quốc phòng, giao thông thương mại, khai thác và bảo vệ tài nguyên, bảo đảm thi hành pháp luật trên biển.

Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và hiện nay là triển khai Chiến lược Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đều xác định nội hàm bao quát đầy đủ các vấn đề của biển và đại dương. Trong đó, Chiến lược Phát triển bền vững kinh tế biển đã xác định lấy phát triển kinh tế, phát triển các vùng biển dựa trên lợi thế về điều kiện tự nhiên, bảo vệ môi trường, bảo tồn, phát triển bền vững đa dạng sinh học làm trụ cột, đòn bẩy để từ đó nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng xã hội gắn bó, thân thiện với biển và bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại và hợp tác quốc tế.

Trong năm nay, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam triển khai các hoạt động chuẩn bị và năm 2021, Tổng cục sẽ tham mưu với Bộ Tài nguyên và Môi trường tiến hành sơ kết 5 năm thực hiện Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Trên cơ sở đó sẽ đề xuất các nội dung sửa đổi, bổ sung Luật và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật để tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Ðây sẽ là cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững kinh tế biển, bảo đảm tính thống nhất, khả thi, phù hợp với chuẩn mực luật pháp và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

T.K (b/s)
Bình luận
Back To Top